Luật An toàn hàng hải sửa đổi của Trung Quốc (TQ) được Ủy ban thường vụ Quốc hội TQ thông qua tại kỳ họp thứ 28 và được Chủ tịch TQ Tập Cận Bình ký ban hành vào ngày 29-4-2021, có hiệu lực từ hôm qua
(1-9-2021). Đây là luật sửa đổi Luật An toàn hàng hải được thông qua năm 1983 và được sửa đổi vào năm 2016. Luật mới bao gồm 10 chương và 122 điều, so với luật sửa đổi trước đó bao gồm 12 chương và 53 điều.
Trao đổi với Pháp Luật TP.HCM, TS Ngô Hữu Phước, ĐH Kinh tế - Luật, ĐH Quốc gia TP.HCM, nhận xét TQ là thành viên của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982 từ ngày 7-6-1996. Tuy nhiên, cường quốc này đã không gương mẫu tôn trọng, tuân thủ thực thi luật pháp quốc tế.
Tàu hải cảnh Trung Quốc. Ảnh: ASIAN MILITARY REVIEW
Hiểu sao về quy định mới của Trung Quốc?
. Phóng viên: Chúng ta hiểu thế nào về yêu cầu tàu thuyền nước ngoài báo cáo khi vào vùng lãnh hải theo Luật An toàn giao thông hàng hải của TQ?
+ TS Ngô Hữu Phước: Lãnh hải là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia ven biển. Do vậy, là một quốc gia ven biển, TQ có quyền ban hành pháp luật với điều kiện quy định của họ phù hợp với UNCLOS và các quy tắc khác của pháp luật quốc tế.
Theo cách hiểu của tôi, Điều 54 của luật này nhắm vào các tàu thuyền có quốc tịch nước ngoài, gồm (i) tàu lặn, (ii) tàu chạy bằng năng lượng hạt nhân, (iii) tàu chở chất phóng xạ hoặc các chất độc hại khác, (iv) các tàu khác có thể gây nguy hiểm cho an toàn giao thông hàng hải của TQ.
Theo đó, nếu các loại tàu nói trên “ra vào lãnh hải”, tức là để thực hiện các hoạt động trong lãnh hải của TQ thì phải báo cáo cho cơ quan quản lý an toàn hàng hải của TQ. Nếu tàu chỉ “đi qua lãnh hải”, tức là thực hiện quyền “đi qua không gây hại” thì không có nghĩa vụ phải “báo cáo” với cơ quan quản lý an toàn hàng hải TQ. Tuy nhiên, khi “đi qua lãnh hải” của TQ thì các tàu đó phải có các chứng chỉ liên quan, phải thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phải tuân thủ pháp luật, quy định hành chính và quy tắc khác của TQ cũng như chấp nhận các hướng dẫn và giám sát về an toàn hàng hải.
Vi phạm luật pháp quốc tế
. Tính pháp lý của các quy định trên do phía TQ đưa ra như thế nào?
+ Nếu yêu sách Biển Đông của TQ, cụ thể là việc xác định đâu là vùng lãnh hải của TQ phù hợp với UNCLOS thì các quy định vừa nêu là phù hợp với Điều 23 của UNCLOS quy định và các nước phải ủng hộ. Tuy nhiên, điều đáng lo ngại nhất đối với Việt Nam cũng như các quốc gia trong khu vực và thế giới chính là cái TQ gọi là vùng “lãnh hải” thực tế không phù hợp luật pháp quốc tế.
Cụ thể, theo Tuyên bố về lãnh hải năm 1958, TQ (khi đó tên gọi là Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa) khẳng định: Bề rộng lãnh hải của TQ là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ TQ mà nước này xác định là gồm phần đất TQ trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa của Việt Nam), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa của Việt Nam) và các đảo khác thuộc TQ.
Tuyên bố nói trên đã được luật hóa tại Luật Lãnh hải và vùng tiếp giáp năm 1992 của TQ. Theo đó, Điều 2 của luật này định nghĩa “vùng lãnh hải” là vùng nước nằm tiếp giáp với lãnh thổ TQ. Phần lãnh thổ được TQ đơn phương xác định cũng bao gồm đất liền và các đảo ngoài khơi xa, Đài Loan và các quần đảo Điếu Ngư, Bành Hồ, Đông Sa, Tây Sa, Nam Sa như trong tuyên bố năm 1958.
Như vậy, về phương diện pháp lý quốc tế, với cách hiểu và xác định lãnh thổ nói chung và lãnh hải nói riêng một cách mơ hồ và phi pháp của TQ theo Tuyên bố 1958 và Luật Lãnh hải 1992 của nước họ, Bắc Kinh đã xâm phạm chủ quyền thiêng liêng của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hai quần đảo này và vùng biển của chúng là các bộ phận cấu thành của lãnh thổ thuộc chủ quyền của nước ta, là ngư trường truyền thống của ngư dân Việt Nam.
Do đó, chúng ta phải kiên quyết phản đối việc TQ áp dụng Luật An toàn hàng hải trên các vùng biển của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Chúng ta không thể chấp nhận thực tế phi lý là tàu thuyền của Việt Nam và các quốc gia khác hoạt động hợp pháp trên các vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam lại phải “báo cáo” với cơ quan quản lý an toàn hàng hải của TQ. Điều đó là phi lý, là vi phạm chủ quyền quốc gia của Việt Nam, trái với luật pháp quốc tế.
Lãnh hải theo UNCLOS Theo UNCLOS 1982, lãnh hải là vùng biển tiếp liền với nội thủy hoặc vùng nước quần đảo (đối với quốc gia quần đảo), nằm phía ngoài đường cơ sở, có chiều rộng không quá 12 hải lý tính từ đường cơ sở. Để xác định lãnh hải, các quốc gia phải xác định đường cơ sở. Theo UNCLOS 1982, có hai phương pháp xác định đường cơ sở, đó là phương pháp đường cơ sở thông thường và phương pháp đường cơ sở thẳng. Tàu thuyền của mọi quốc gia có biển hay không có biển đều được quyền “đi qua không gây hại” và có các nghĩa vụ thực hiện quy định theo UNCLOS. |