
Tổng bí thư Đặng Tiểu Bình và Tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter trong cuộc gặp gỡ tại Hoa Kỳ năm 1979.
Dịch: Vũ Đức Trung
Lời người dịch: Bài nghiên cứu này được xuất bản trên tạp chí chuyên ngành American Journal of Chinese Studies, số ra tháng 4 năm 2009. Bản điện tử có thể được tìm thấy tại địa chỉ http://www.jstor.org/stable/44289310.
Tác giả của bài báo này là giáo sư John F.Copper thuộc viện nghiên cứu Quốc tế tại đại học Rhodes, Memphis, Hoa Kỳ. Ông cũng là tác giả của trên hai mươi lăm cuốn sách về Châu Á (tính đến năm 2009).
Ba mươi năm trước Trung Quốc và Việt Nam đã tham gia vào một cuộc đối đầu quân sự, được ví như là chiến tranh Đông Dương lần thứ ba (tiếp theo hai cuộc chiến tranh giữa Mỹ, Pháp với Việt Nam). Chiến tranh bùng nổ vào ngày 17 tháng 2 khi Giải phóng quân Trung Quốc tràn qua biên giới Việt- Trung và thâm nhập vào lãnh thổ phía Bắc của Việt Nam để nhanh chóng chiếm đóng 4 thị xã tỉnh lị gần biên giới.
Theo phía Bắc Kinh, cuộc tấn công của Trung Quốc là một sự đáp trả lại việc chính quyền Việt Nam giết hại người Trung Quốc tại Việt Nam, cưỡng ép họ tới các trại lao động tập trung và trục xuất nhiều người khác khiến họ trở thành các “thuyền nhân,” và cuộc tấn công này cũng là sự đáp trả lại những tranh chấp liên quan tới quần đảo Hoàng Sa. Nhưng kì thực, lí do đáng chú ý nhất có lẽ bắt nguồn từ việc Việt Nam xâm lấn và chiếm đóng nước láng giềng Campuchia, biến nước này thành một nước chư hầu của Việt Nam.
Chính quyền Việt Nam cho rằng đã có 600.000 lính Trung Quốc tham gia cuộc chiến. Một con số khác thường được nhắc tới là 200.000; một số người lại cho rằng chỉ có 80.000 lính mà thôi. Ước tính số chết trận và bị thương trong cuộc chiến cũng không đồng nhất, từ 20.000 cho cả hai bên cho đến hơn 100.000. Theo một bản báo cáo, số quân Trung Quốc bị thương vong là 60.000. Nhà cầm quyền Trung Quốc nói rằng chỉ có 6.000 lính tử trận và 15.000 bị thương tật. Dù thế nào đi nữa thì phía Việt Nam cũng chịu nhiều tổn thất hơn, còn con số cụ thể thì không xác định được.
Cuộc chiến này cũng được biết đến với cái tên “Cuộc chiến bị lãng quên” bởi vì sự kiện này đã không được đưa tin rộng rãi tại thời điểm đó. Hơn nữa, từ năm 1979 các nhà sử học cũng không nhắc đến nó thường xuyên và cũng không rút ra được những tác động nghiêm trọng từ cuộc chiến này.
Vào thời điểm năm 1979, có nhiều sự kiện khác thu hút sự chú ý của dư luận hơn là chiến tranh biên giới Việt- Trung. Trước khi cuộc đụng độ xảy ra, vua Shah của Iran bị lật đổ trong cuộc Cách mạng Hồi giáo và Ayatollah Khomeini đã lên nắm quyền, sau đó là việc các sinh viên nước này bao vây Tòa Đại sứ quán Mỹ và bắt các nhân viên Mỹ đang làm việc nơi đây làm con tin. Cuối năm 1979, Liên Xô đưa quân vào Afghanistan dẫn đến cuộc chiến mà Liên Bang Xô Viết sẽ chịu nhiều thất bại và tiến tới việc khối Xô-Viết dần tan rã.
Năm 1979 cũng có nhiều sự kiện khác thu hút sự chú ý của báo chí, chẳng hạn như: Sandinistas nắm quyền ở Nicaragua, cuộc chiến tranh giữa Ethiopia và Sudan, vụ tai nạn liên quan đến năng lượng nguyên tử tại đảo Ba Dặm ( Three Mile Island) ở Hoa Kỳ. Margaret Thatcher trở thành Thủ Tướng ở UK, cùng năm đó, Mỹ và Liên Xô đạt được thỏa thuận về giới hạn vũ khí chiến lược.
Một lí do khác giải thích tại sao chiến tranh Trung-Việt không được báo chí quan tâm đến ấy là ngay cả hai bên Trung Quốc lẫn Việt Nam đều không muốn nói nhiều về nó. Không có mấy vinh quang được tìm thấy ở cuộc chiến này. Cả hai đều có những chuyện quan trọng khác cần làm. Thêm nữa, Hoa Kỳ khi ấy hãy còn đang chối bỏ việc thất trận Việt nam và không muốn nghe hay bàn luận về các sự kiện ở Đông Dương nữa.
Tuy bị “lãng quên” nhưng cuộc chiến Trung-Việt có những tác động thực sự. Nó ảnh hưởng sâu sắc lên Trung Quốc, Việt Nam và các nước Đông Nam Á. Nó đụng chạm tới Hoa Kỳ và phần còn lại của thế giới. Tầm ảnh hưởng của nó vẫn còn có thể cảm nhận được đến hôm nay.
Quân đội Trung Quốc phơi bày năng lực tác chiến kém cỏi (Lưu ý, cuộc chiến này không có sự tham gia của hải quân, còn không quân thì chỉ có nhiệm vụ hỗ trợ cho bộ binh xâm lấn). Nguyên nhân chính của sự yếu kém này ấy là quân Trung Quốc đã bị chính trị hóa một cách tồi tệ dưới thời Mao Trạch Đông (Mao chết ba năm trước) và vẫn còn hoạt động theo đường lối cũ.
Lính của Quân giải phóng Trung Quốc đọc các tác phẩm của Mao để chuẩn bị cho cuộc chiến. Theo đuổi mục tiêu của chủ nghĩa quân bình cực đoan, họ thậm chí không hề đeo các phù hiệu để chỉ rõ cấp bậc. Do đó, khi lâm trận nếu người lãnh đạo bị tử vong, lính Trung Quốc không biết ai là người thay thế vị chỉ huy và cũng không biết nên nghe theo mệnh lệnh của ai. Điều này gây nên sự hỗn loạn và tỉ lệ tử vong cao (chắc chắn cao hơn rất nhiều so với con số mà Trung Quốc công bố).
Sau chiến tranh Trung-Việt, Đặng Tiểu Bình đã thúc đẩy tính chuyên nghiệp trong quân đội. Trong khi ấy, các cải cách kinh tế đã đạt được nhiều thành tựu. Một số nhà nghiên cứu nhận xét rằng sự tăng trưởng kinh tế một cách thần kì của Trung Quốc trong 3 thập kỉ sau đó mà một điều tất yếu sẽ xảy ra.
Các nước Đông Nam Á khác nhìn chung nghiêng về phía Trung Quốc trong cuộc chiến tranh này, dù họ có một sự e ngại đáng kể trước những tham vọng bá chủ của Trung Quốc trong khu vực. Chống lại việc Việt Nam kiểm soát Campuchia, Trung Quốc được đánh giá là đang bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Campuchia và chia sẻ cùng quan điểm với các nước láng giềng của Việt Nam.
Không phải tình cờ mà mối quan hệ của Trung Quốc với Hiệp hội Đông Nam Á cải thiện rất nhiều sau cuộc chiến Trung- Việt và trong những năm tiếp theo, mối bang giao Trung Quốc-ASEAN phát triển đến mức mà nó hứa hẹn sẽ trở thành một khối siêu cường về kinh tế: ASEAN-cộng một (một ở đây chính là Trung Quốc).
Dù quân Trung Quốc không thể hiện tốt trên chiến trường nhưng Đặng Tiểu Bình đã hiện thực hóa được các mục tiêu chiến lược. Điều này có những hậu quả sâu rộng, cụ thể:
Một là, Đặng Tiểu Bình cho thấy Liên Xô chỉ là một “con gấu bắc cực bằng giấy.” Tháng 11 năm trước, Liên Xô đã kí một hiệp ước phòng thủ với Hà Nội và tăng cường sự hiện diện quân sự trên biên giới Trung-Việt để đe dọa Trung Quốc. Nhưng khi chiến tranh xảy ra, điện Kremlin đã có rất ít hành động để giúp đỡ Việt Nam. Nhiều người thắc mắc nhưng sẽ hiểu từ từ sau đó, lí do tại sao Liên Xô lại yếu kém đến vậy.
Hai là, cuộc chiến này khiến Việt Nam trả giá đắt về tiền của và các nguồn lực. Hà Nội không còn đủ sức để duy trì quân đội tại Campuchia và dần dần phải rút quân về nước. Do đó mối lo ngại Việt nam sẽ làm bá chủ ở Đông Nam Á như nhiều người lo ngại là không có thật.
Mối quan hệ Trung Quốc-Việt nam vẫn còn thù nghịch hơn một thập kỉ sau cuộc chiến. Luôn có căng thẳng trên biên giới, tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, và vấn đề “thuyền nhân” cũng rất rắc rối. Tình hình chỉ được cải thiện khi thời gian làm dịu cả hai phía; nó được đánh dấu bằng việc Hà Nội ủng hộ chính quyền Trung Quốc đàn áp sinh viên ở quảng trường Thiên An Môn. Lí do đằng sau là cả hai đã tập trung vào mối bận tâm duy nhất là phát triển kinh tế. Hai nước đã kí thỏa thuận bình thường hóa quan hệ vào năm 1990.
Đối với Hoa Kỳ, cuộc chiến Trung Việt đã khiến nước này lâm vào những tình huống khó xử nghiêm trọng. Hoa Kỳ thất trận ở Việt Nam năm 1975, mà theo nhiều người đây là cuộc chiến duy nhất Hoa Kỳ thất bại. Người Mỹ không muốn nhắc đến cuộc mạo hiểm ở Đông Nam Á và thất bại thảm hại của mình.
Nhưng, Việt Nam đã xâm chiếm Campuchia và biến nó thành một nước lệ thuộc. Điều này vi phạm một nguyên tắc quan trọng mà Hoa Kỳ vẫn hằng theo đuổi sau Thế Chiến thứ 2, ấy là biên giới quốc gia của các nước được xác định và không một nước nào có quyền lấy đất đai từ nước khác cũng như khiến nước đó trở thành nước chư hầu. Lần này, Trung Quốc lại là nước ra tay thực thi nguyên tắc mà Hoa Kỳ đề cao.
Cũng có một vấn đề quan trọng khác, một mâu thuẫn đặt ra cho nước Mỹ. Jimmy Carter từng nói khi vận động cho cuộc bầu cử Tổng thống, rằng nhân quyền sẽ là “linh hồn của chính sách ngoại giao Hoa Kỳ.” Chẳng phải Việt Nam mới đây đã hạ gục chính phủ của Pol Pot, khiến hắn và đồng bọn phải chạy trốn tới Thái lan, chấm dứt một trong những chế độ tệ hại nhất trong việc lạm dụng nhân quyền ư? Jimmy Carter nên lấy làm thỏa mãn vì chế độ diệt chủng Pol Pot đã bị xóa xổ, nhưng rõ ràng, sự hiếu chiến của Việt Nam cũng tệ không kém.
Tổng thống Carter cũng bực bội với Liên Xô mặc dù đầu nhiệm kì ông ta còn kì vọng sẽ giải quyết vấn đề Liên Xô một cách hòa bình. Phía Nga vẫn tiếp tục phát triển các vũ khí chiến lược nhắm vào Hoa Kỳ, hung hăng lợi dụng bất ổn ở Iran, và chớp mọi thời cơ để gieo rắc tinh thần bài trừ Hoa Kỳ khắp nơi nên thế giới.
Đi ngược lại với những niềm tin ban về chính sách ngoại giao, Carter quyết định phải cân bằng lại sức mạnh của Liên Xô. Do đó, vào tháng 12 năm 1978, nội các của Carter đã đạt được những thỏa thuận để thiết lập bang giao với Trung Quốc kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1979. Đa số dân chúng Hoa Kỳ ủng hộ bước tiến này, mặc dù Quốc hội nhìn nhận những thỏa thuận ngầm của Carter là rất gian xảo. Carter cho công bố tin tức ngay trước lễ Giáng Sinh khi mà Quốc hội còn đang trong kì nghỉ, đồng thời không điếm xỉa gì đến Đài Loan cũng như lợi ích của Hoa Kỳ ở Đài Loan.
Người lãnh đạo mới lên nắm quyền của Trung Quốc là Đặng Tiểu Bình, đã viếng thăm Hoa Kỳ từ ngày 28 tháng 1 tới ngày 5 tháng 2, ngay cả khi quân đội của ông ta đang âm thầm ráo riết chuẩn bị tấn công Việt Nam. Đặng Tiểu Bình trở nên thành công trong con mắt dân chúng Hoa Kỳ.
Đang khi ở Washington, trong vòng bí mật Đặng Tiểu Bình đàm phán một hiệp ước cho phép Hoa Kỳ đặt cơ quan tình báo ở Trung Quốc để bù đắp lại mất mát ở Iran. Nhưng quan trọng hơn, Đặng Tiểu bình muốn một cuộc gặp riêng với Tổng thống Carter và cũng như với một số nhà lãnh đạo cấp cao khác để nói với họ rằng: Đặng Tiểu Bình sắp “dạy cho Việt Nam một bài học” khi Đặng trở về nước. Đặng Tiểu Bình đề nghị Hoa Kỳ giúp đỡ trong việc này.
Tổng thống Carter không thích bị coi là kẻ ủng hộ chiến tranh hoặc muốn Hoa Kỳ nhúng tay vào Đông Nam Á một lần nữa. Tuy nhiên, Carter cũng đã gật đầu đồng ý và thậm chí còn giúp Trung Quốc với những tin tức tình báo mà Trung Quốc cần để lượng giá nếu phía Nga tham gia vào cuộc chiến nhằm bảo vệ Việt Nam theo hiệp ước Nga-Việt.
Nếu các nhà quan sát chú ý tới mối quan hệ Trung Quốc- Hoa Kỳ trong thời điểm này, họ đã có thể tiên báo được việc hai nước này cùng phản đối việc Liên Xô chiếm đóng Afghanistan và hiểu được tại sao Việt Nam và Hoa kỳ cần nhiều thời gian đến vậy để bình thường hóa quan hệ.
Vào dịp kỉ niệm 30 năm cuộc chiến tranh biên giới Trung- Việt, rất đáng để nhìn lại cuộc chiến thường bị lãng quên này. Cuộc chiến ấy đã khiến Trung Quốc và Việt Nam trở nên thù địch trong hơn một thập kỉ. Nó khiến người Mỹ phải nghĩ lại chính sách ngoại giao với Liên Xô và Châu Á. Nó cho thế giới thấy những vấn đề gai góc: Liệu lí do tiêu diệt chế độ diệt chủng ở Campuchia có đủ biện minh cho việc quân đội Việt nam chiếm đóng nước này? Liệu việc Trung Quốc xâm lấn Việt nam có chính đáng? Rất nhiều người đang tìm kiếm những câu hỏi thỏa đáng cho những vấn đề này.